Bí mật kinh doanh là một tập hợp các thông tin không phải là hiểu biết thông thường được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được. Các thông tin này có khả năng áp dụng trong kinh doanh và tạo lợi thế cho người sở hữu nó so với những chủ thể khác.
Trong thực tế, việc bảo vệ thông tin như vậy khá mơ hồ: nếu tuyên bố một thông tin là bí mật thương mại thì đồng nghĩa với việc chứng minh sự tồn tại của thông tin đã được giữ bí mật và vẫn khó tiếp cận đối với người ngoài. Bí mật thương mại là mục tiêu thực sự để chiếm đoạt nên bí mật thương mại cần được bảo vệ để duy trì sự tồn tại khỏi những đối tượng có khả năng tiếp cận như nhân viên, nhà thầu phụ, tin tặc, gián điệp và kỹ thuật đảo ngược,… Những đối tượng được đề cập ở đây đều là mối đe dọa đối với tài sản quý giá này của doanh nghiệp.
Bí mật thương mại là một tài sản mang tính phổ quát, và không lâu trước khi đối tượng này được đề cập trong tài liệu tham khảo và quy định trong các công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như Hiệp định TRIPS (là hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại về quyền sở hữu trí tuệ)[1] hoặc gần đây là Hiệp định EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU).[2] Việt Nam cũng đã thông qua hệ thống luật pháp trong nước để tạo khuôn khổ cho việc bảo vệ bí mật thương mại và bằng chứng về sự tồn tại của chúng trong bối cảnh gây tranh cãi. Tuy nhiên, việc bảo vệ bí mật thương mại theo luật pháp và quốc tế vẫn còn là những biện pháp khắc phục thường được áp dụng cuối cùng bởi lẽ các biện pháp này được áp dụng thường là quá muộn khi việc tiết lộ hoặc chiếm đoạt gây nguy hiểm cho bí mật thương mại.
Mặc dù luật pháp quy định các hình phạt mang tính lý thuyết trong trường hợp vi phạm, bí mật thương mại chỉ là một tài sản thực nếu chúng vẫn còn nguyên vẹn. Vì vậy, các công ty đóng vai trò là quan trọng trong việc bảo vệ những bí mật này.
1. Khung pháp lý của bí mật thương mại
Theo quy định pháp luật trong nước, bí mật kinh doanh được định nghĩa là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.[3]
Để đủ điều kiện được bảo vệ, thông tin được đề cập phải đáp ứng các tiêu chí sau[4] :
- Không phải là kiến thức phổ biến và không dễ dàng có được; (i)
- Khi được sử dụng trong hoạt động kinh doanh mang lại lợi thế cho chủ sở hữu của nó so với những người không nắm giữ hoặc sử dụng nó; (ii)
- Được giữ bí mật bởi chủ sở hữu với các biện pháp cần thiết để không bị tiết lộ và cũng không dễ dàng tiếp cận.(iii)
Liên quan đến các vi phạm về bí mật thương mại, các vi phạm thường ở góc độ quyền sở hữu trí tuệ[5] và góc độ cạnh tranh không lành mạnh[6]. Những vi phạm này thường được cụ thể hóa bằng cách tiết lộ, chiếm đoạt hoặc thu thập gian lận thông tin này.
2. Thỏa thuận bảo mật
Thỏa thuận bảo mật này liên quan đến một số thực tiễn như sau:
2.1 Thường xuyên ký kết các thỏa thuận không tiết lộ
- Với ai?
Các thỏa thuận này thường được ký kết với tất cả các những chủ thể có khả năng tiếp cận và tìm hiểu hoạt động nội bộ của công ty.
2.2 Soạn thảo một thỏa thuận không tiết lộ trước hết là một biện pháp ngăn chặn hợp lý.
Do đó, người nhận thông tin phải cảm thấy có trách nhiệm đối với bất kỳ vi phạm bảo mật nào.
- Tại thời điểm nào?
- Nên ký kết loại thỏa thuận này trước khi truyền tải bí mật thương mại.
- Quy định các điều khoản không cạnh tranh và không tiết lộ trong hợp đồng lao động
- Với ai?
- Các điều khoản này sẽ được bao gồm trong hợp đồng lao động của tất cả nhân viên của công ty, đặc biệt là những người được yêu cầu xử lý bí mật thương mại.
- Các nghĩa vụ này một mặt sẽ đảm bảo tính bảo mật của thông tin được truyền tải nhưng cũng ngăn chặn bất kỳ hành vi nhằm cạnh tranh không lành mạnh với công ty của mình trong tương lai.
- Theo những điều khoản nào?
Có tranh cãi về hiệu lực của các thỏa thuận không cạnh tranh trong hợp đồng lao động vì về mặt lý thuyết chúng sẽ vi phạm quyền tự do làm việc của người lao động[7].
Tuy nhiên, một số trường hợp cũng cho phép thỏa thuận này[8] trên cơ sở sự tự nguyện của các bên. Khi chúng được phân định chi tiết và phân định rõ ràng về thời gian và không gian, các điều khoản này do đó được coi là một thỏa thuận dân sự có thể có hiệu lực.
Thỏa thuận không tiết lộ (NDA) là cách thỏa thuận phổ biến hơn trong lĩnh vực lao động và chúng đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ dữ liệu bí mật của công ty bởi nhân viên. Để kết luận, bảo mật là chìa khóa cho sự tồn tại của bí mật thương mại. Xác định tất cả các trường hợp tiếp cận quy định nội bộ của công ty cho phép doanh nghiệp bảo vệ và kiểm soát một cách tốt hơn các bí mật thương mại của mình. Logic hợp đồng bảo mật này phải vẫn là một biện pháp răn đe: nó không nhằm mục đích xử phạt vi phạm, mà nhiều hơn để đảm bảo rằng vi phạm này, theo trách nhiệm pháp lý, sẽ không bao giờ xảy ra.
[1] Điều 39 Hiệp định TRIPS – Bảo vệ thông tin không được tiết lộ
[2] Điều 10.12 của Hiệp định EVFTA – Bảo mật
[3] – Điều 4.23 Luật SHTT (2005)
[4] – Điều 84 Luật SHTT (2005)
[5] – Điều 127 Luật SHTT (2005)
[6] – Điều 45.1 Luật Cạnh tranh (2018)
[7] Điều 10.1 và 10.2 của Bộ luật Lao động
[8] Đáng chú ý là tuyên bố của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cho rằng thỏa thuận không cạnh tranh là loại giao dịch dân sự hợp lệ – https://letranlaw.com/insights/enforcing-a-non-compete-agreement-for-employment-contracts-in-vietnam/#_ftn1
