Bùi Công Thành (James)
Nguyễn Thị Phong Lan
Trong những năm gần đây việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng phán quyết Hội đồng trọng tài ngày càng phổ biến bởi phương thức này được thực hiện nhanh chóng, bảo mật và linh hoạt hơn so với phương pháp giải quyết tranh chấp truyền thống tại toà án. Cụ thể, số liệu thống kê các tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế Việt Nam (VIAC) cho thấy trong năm 2020, đã có 211 tranh chấp với tổng giá trị là 17,021 tỷ VNĐ đã được giải quyết tại VIAC, tăng gấp 3,5 lần so với số vụ tranh chấp được ghi nhận vào năm 2010 là 63 vụ[1].
Để giúp doanh nghiệp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình sau khi tranh chấp đã được giải quyết bằng trọng tài thương mại, trong phạm vi bài viết này, PLF sẽ cung cấp thông tin về phương thức thi hành đối với những phán quyết, quyết định của Hội đồng trọng tài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1. Phán quyết, quyết định của Hội đồng trọng tài là gì?
Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010, Quyết định trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp. Quyết định trọng tài được áp dụng phổ biến là Quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Luật Trọng tài thương mại, phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài.
Như vậy một quyết định của Hội đồng trọng tài chỉ được coi là phán quyết trọng tài khi đáp ứng hai điều kiện nêu trên.
Về hiệu lực pháp luật, phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày được ban hành[2].
Theo đó, khác với phương thức giải quyết truyền thống tại Toà án, một trong các bên có thể làm thủ tục kháng cáo lên toà án cấp cao hơn để xem xét lại nội dung của bản án trong trường hợp không đồng ý với bản án của Toà án đã xét xử và bản án chỉ được thi hành sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị là 30 ngày kể từ ngày bản án được ban hành, phán quyết trọng tài không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành ngay.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, các bên vẫn có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài sửa chữa, giải thích và bổ sung phán quyết mà những điều chỉnh này không làm thay đổi cơ bản nội dung của phán quyết trọng tài đã được ban hành.
2. Thi hành phán quyết, quyết định của Hội đồng trọng tài
Xuất phát từ bản chất là tranh chấp thương mại giữa các doanh nghiệp, các bên được khuyến khích tự nguyện thi hành các quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài. Thông thường các bên tự nguyện thi hành quyết định, phán quyết trọng tài mà không cần có sự can thiệp của bên thứ ba khi các quyết định, phán quyết này phù hợp với nguyện vọng chung của các bên và họ không muốn kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp.
Như đã đề cập, quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài có giá trị ràng buộc với các bên nên nếu họ không tự nguyện thi hành thì việc thi hành các phán quyết, quyết định này sẽ được đảm bảo thông qua hệ thống cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2.1 Thời hiện yêu cầu thi hành án
Theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án là trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Như vậy, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án được hoãn thi hành án. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
2.2 Điều kiện thi hành phán quyết trọng tài
Theo quy định tại Điều 66 Luật Trọng tài thương mại, có 3 điều kiện cần được đáp ứng là:
- hết thời hạn thi hành
- bên phải thi hành không tự nguyện thi hành
- không có yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài thì bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
Cần lưu ý rằng đối với phán quyết của trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký tại Toà án có thẩm quyền là trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài.
Quy định này xuất phát từ bản chất của trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận nên thường không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và danh sách trọng tài viên cố định, kết quả giải quyết vụ tranh chấp được thực hiện dựa trên thỏa thuận lựa chọn từ bất kỳ một quy tắc tố tụng của các bên. Do đó, sau khi ra phán quyết, Hội đồng trọng tài sẽ tự động giải tán.
Vì vậy
Để đảm bảo tính hợp pháp của phán quyết trọng tài trước khi yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành cần phải được công nhận bởi Toà án. Do đó, trước khi nhận đơn yêu cầu của người được thi hành phán quyết trọng tài, cơ quan thi hành án dân sự thường có công văn đề nghị tòa án có thẩm quyền xác nhận phán quyết trọng tài có bị Tòa án tuyên hủy hoặc có đơn yêu cầu hủy hay không trước khi thụ lý yêu cầu thi hành án.
2.3 Thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài
Theo Điều 8 Luật Trọng tài thương mại 2010, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết, quyết định của Hội đồng trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết.
Trường hợp nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở khác với trụ sở của cơ quan thi hành án có thẩm quyền. Việc uỷ thác thi hành án theo Điều 55 Luật Thi hành án dân sự sẽ được áp dụng.
Như vậy
Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể lại phải ủy thác thi hành án đến nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Điều này có thể dẫn đến thời gian tổ chức thi hành án bị kéo dài và tốn kém chi phí.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy hoạt động thi hành án dân sự đối với phán quyết, quyết định của Hội đồng trọng tài và bản án, quyết định của tòa án hoàn toàn không có sự khác biệt. Do đó, để việc thi hành quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài hiệu quả, trong quá trình thi hành án, bên được thi hành án cần phải hợp tác giải quyết cũng như cung cấp thông tin về người phải thi hành cũng như tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành để chấp hành viên có cơ sở xác minh xử lý thi hành theo quy định.
Hiểu rõ các phương thức thi hành phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật Việt Nam giúp doanh nghiệp bảo vệ hiệu quả quyền lợi hợp pháp sau khi giải quyết tranh chấp thành công. PLF cam kết cung cấp hướng dẫn toàn diện về vấn đề này. Liên hệ với chúng tôi qua email inquiry@plf.vn hoặc liên hệ số điện thoại +84913 902 906 hoặc Zalo | Viber | WhatsApp để nhận được 30 phút tư vấn miễn phí ban đầu.
Nguồn:
[1] Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 2020 do VIAC công bố .
[2] Điều 61 Luật Trọng tài thương mại 2010.
Bài viết được căn cứ theo pháp luật hiện hành tại thời điểm được ghi nhận như trên và có thể không còn phù hợp tại thời điểm người đọc tiếp cận bài viết này do pháp luật áp dụng đã có sự thay đổi và trường hợp cụ thể mà người đọc muốn áp dụng. Do đó bài viết chỉ có giá trị tham khảo.
