Hợp đồng thử việc thực tế không còn xa lạ đối với doanh nghiệp và tâm lý chung của một số doanh nghiệp trong việc đánh giá quan hệ thử việc đó là “không đáng lo ngại hay ít rủi ro” hơn so với Hợp đồng lao động. Tuy nhiên chính góc nhìn này của doanh nghiệp đã đẩy một số doanh nghiệp rơi vào tình huống nan giải và gặp không ít rủi ro, đôi khi là các tranh chấp tại cơ quan lao động, tòa án. Để đảm bảo tuyển dụng được đúng nhân sự phù hợp thì việc xác lập hợp đồng thử việc cùng với việc ghi nhận kết quả đánh giá công việc, thực hiện quy trình thông báo đúng quy định được xem là những công việc quan trọng mà doanh nghiệp không nên bỏ qua.
Như chúng ta đã biết, pháp luật lao động cũ trước đây và hiện tại đều ghi nhận điều khoản về việc công ty chỉ được cho người lao động thử việc một lần đối với một công việc.
Với quy định này, hiện nay nhiều luồng quan điểm hiểu rằng đối với một vị trí công việc nhất định tại công ty, chỉ được áp dụng thử việc một lần duy nhất đối với một người lao động, trường hợp người lao động ngừng việc hoặc kết thúc quan hệ lao động với công ty, sau đó tiếp tục quay trở lại lao động với vị trí công việc đó thì công ty không được yêu cầu người lao động thử việc lại.
1.1 Hình thức giao kết thử việc
Công ty và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc theo một trong hai hình thức sau:
1.2 Nội dung không bắt buộc phải thỏa thuận khi giao kết hợp đồng thử việc
Các nội dung được liệt kê bên dưới không bắt buộc phải thỏa thuận khi công ty giao kết hợp đồng thử việc với người lao động:
Một số nội dung được yêu cầu khi giao kết hợp đồng thử việc với người lao động là:
1.3 Trường hợp không áp dụng thử việc
Khoản 3 Điều 24 Bộ luật lao động 2019 quy định công ty không được áp dụng thử việc đối với người lao động giao kết hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng. Như vậy, yêu cầu không áp dụng thử việc của quy định này chỉ áp dụng đối với loại hợp đồng lao động thời vụ ngắn hạn với thời hạn dưới 01 tháng. Như vậy, công ty dự định ký hợp đồng với thời hạn từ 01 tháng trở lên với người lao động thì có quyền thỏa thuận thử việc với người lao động. Tuy nhiên, thời hạn thử việc còn phải tuân theo điều kiện được đề cập tại mục 2. của bài viết này.
Công ty và người lao động có thể tự do thỏa thuận thời gian thử việc dựa trên căn cứ tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng phải bảo đảm điều kiện sau đây:
Như vậy, quy định mới loại bỏ thời hạn thử việc theo thời hạn của hợp đồng lao động dự kiến ký kết; cơ cấu lại thời gian thử việc cũng như bổ sung quy định thử việc lên đến thời hạn 180 ngày đối với đối tượng là nhà quản lý, người có chức vụ, quyền hạn cao trong công ty.
Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.
Thêm vào đó, mức lương tối thiểu trong thời gian thử việc (85% mức lương của công việc chính thức) không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động do chính phủ ban hành, xác định bởi nơi người lao động làm việc và tại từng thời điểm cụ thể.
Tuy nhiên trên thực tế, có trường hợp công ty tuyển dụng lao động ở vị trí quản lý cấp cao với mức lương “khủng”. Theo đó, công ty mong muốn và cùng người lao động thỏa thuận trả lương thấp hơn mức 85% lương chính thức theo quy định trong thời gian thử việc để người lao động làm quen công việc, đồng thời công ty cũng có thời gian để đánh giá năng lực của người lao động trước khi đưa ra mức lương và đãi ngộ chính thức. Thực tế, không khó để chúng ta nhận thấy hiện nay nhiều doanh nghiệp đang áp dụng cách thức chi trả lương trên cơ sở khuyến khích một mức lương cao hơn khi người lao động đáp ứng một số tiêu chí nhất định, cụ thể:
Ví dụ:
4.1 Kết thức thử việc trong thời gian thử việc
Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường.
4.2 Kết thúc thử việc khi hết thời gian thử việc
Khi kết thúc thời gian thử việc, công ty phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động, cụ thể:
Một số lưu ý khác khi thử việc:
Bài viết được căn cứ theo pháp luật hiện hành tại thời điểm được ghi nhận như trên và có thể không còn phù hợp tại thời điểm người đọc tiếp cận bài viết này do pháp luật áp dụng đã có sự thay đổi và trường hợp cụ thể mà người đọc muốn áp dụng. Do đó bài viết chỉ có giá trị tham khảo.