Với nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, Việt Nam là một trong những quốc gia châu Á mở cửa hoàn toàn đối với khách du lịch quốc tế. Theo báo cáo chỉ số năng lực phát triển du lịch toàn cầu năm 2021 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), du lịch Việt Nam xếp hạng thứ 52 trên 117 nền kinh tế, tăng 8 bậc so với năm 2019. Điều này cho thấy Việt Nam dần trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế, kéo theo đó là sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Bài viết này sẽ cung cấp các điều kiện tổng quan để nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh trong dịch vụ lữ hành tại Việt Nam.
Theo cam kết WTO thì Việt Nam không hạn chế phần vốn góp của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong liên doanh đối với dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch (CPC 7471), điều này cũng được cam kết tương tự tại Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam (EVFTA).
Với cam kết này của Việt Nam, các nhà đầu tư bắt buộc phải:
Kinh doanh dịch vụ lữ hành tại Việt Nam được chia thành các hoạt động sau:
Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế được kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế và dịch vụ lữ hành nội địa, tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế phục vụ khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Theo đó với mỗi loại hình kinh doanh dịch vụ lữ hành khác nhau thì nhà đầu tư sẽ phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh tương ứng.
Kinh doanh dịch vụ lữ hành được quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện (196), theo đó:
Kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa yêu cầu đáp ứng các điều kiện sau:
Kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế yêu cầu đáp ứng các điều kiện sau:
Ngoài ra, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành đối với khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài mức ký quỹ là 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.
Việc thành lập công ty dịch vụ lữ hành, thường được thực hiện qua các bước như sau:
Bước 1: Xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
Bước 2: Xin giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Bước 3: Xin giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành
Bài viết được căn cứ theo pháp luật hiện hành tại thời điểm được ghi nhận như trên và có thể không còn phù hợp tại thời điểm người đọc tiếp cận bài viết này do pháp luật áp dụng đã có sự thay đổi và trường hợp cụ thể mà người đọc muốn áp dụng. Do đó bài viết chỉ có giá trị tham khảo.